Một số yếu tố ảnh hưởng tới cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm tiền gửi

Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đổ vỡ có thể gây ảnh hưởng xấu tới niềm tin của người gửi tiền, cũng như làm giảm sức cung cấp vốn tín dụng cho nền kinh tế.

Mục đích cơ bản và cốt lõi của chính sách BHTG là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền 

 

Do đó, áp dụng cơ chế xử lý đổ vỡ hiệu quả và đa dạng không chỉ giúp bảo vệ tiền gửi của người gửi tiền, mà còn hỗ trợ để tiếp tục duy trì hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, lành mạnh. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi nhiều nguồn lực tài chính, trong đó, theo Nguyên tắc 09 – Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống BHTG hiệu quả của Hiệp hội BHTG quốc tế – IADI (2014) khuyến nghị: Nguồn quỹ của tổ chức BHTG có thể được sử dụng cho mục đích xử lý tổ chức tham gia BHTG như một hình thức thay thế cho việc chi trả.

Tại Việt Nam, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (2017) đã trao thêm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam một số nhiệm vụ nhằm tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD), cụ thể: Cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt, mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ, tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi TCTD và tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt. 
 

Không những bảo vệ trực tiếp cho người gửi tiền thông qua việc chi trả tiền bảo hiểm, tổ chức BHTG còn đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần ổn định thị trường tài chính tiền tệ thông qua việc xử lý các TCTD hoạt động yếu kém, giúp các TCTD này ổn định trở lại, hay rút lui có trật tự mà không gây ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ. Muốn vậy, quỹ BHTG cần được quản lý một cách chặt chẽ và hiệu quả. Theo khuyến nghị của IADI (2014) thì quỹ BHTG  đem lại hiệu quả trong quá trình tham gia xử lý đổ vỡ hoặc tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD. Tuy nhiên, cơ chế quản lý quỹ BHTG bị tác động bởi một số yếu tố sau:
 
– Khuôn khổ pháp lý: Khuôn khổ pháp lý của hoạt động BHTG là một trong những yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến cơ chế quản lý quỹ BHTG. Khuôn khổ pháp lý của hoạt động BHTG ở Việt Nam là chính sách do Nhà nước ban hành. Chính sách này luôn được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế – xã hội, vì vậy khi có thay đổi về chính sách BHTG sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ BHTG cũng như cơ chế quản lý quỹ BHTG. Ví dụ, khi chính sách pháp luật về BHTG quy định các TCTD đều phải tham gia BHTG thì đối tượng tham gia đóng góp vào quỹ sẽ rất lớn. Ngược lại, nếu chỉ một số đối tượng phải tham gia BHTG thì đối tượng tham gia đóng phí BHTG sẽ ít đi, ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ BHTG. Đồng thời, nếu quy định đối tượng, loại hình tổ chức tham gia BHTG khác nhau thì nguồn thu đối với quỹ BHTG cũng khác nhau. Tương tự, nếu chính sách, pháp luật quy định mức đóng góp của từng loại đối tượng như thế nào, sẽ ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến nguồn thu, sự phát triển của nguồn thu quỹ BHTG.
 
Khung pháp lý quy định loại hình của tổ chức BHTG cũng quyết định cơ chế quản lý tài chính của tổ chức BHTG đó. Khung pháp lý quy định loại hình tổ chức BHTG là các quy định pháp luật tạo ra môi trường, ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính của tổ chức đó trên các mặt: Huy động vốn, sử dụng vốn, tự chủ tài chính… Ví dụ, khuôn khổ thể chế pháp lý quy định tổ chức BHTG hoạt động với loại hình tổ chức nào (tổ chức tài chính Nhà nước hay doanh nghiệp…) sẽ có các quy định hướng dẫn về cơ chế tài chính liên quan đến hoạt động với mô hình tổ chức đó, từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành, quản lý và sử dụng quỹ của tổ chức BHTG. Khuôn khổ pháp lý đầy đủ, nhất quán sẽ tạo môi trường tốt cho việc vận hành quỹ BHTG và ngược lại.
 
Đối với hoạt động BHTG, cấu trúc và đặc điểm của hệ thống tài chính là nhân tố được coi là có ảnh hưởng nhiều nhất tới quỹ BHTG.
 
– Đặc điểm của hệ thống tài chính: Đối với hoạt động BHTG, cấu trúc và đặc điểm của hệ thống tài chính có ảnh hưởng nhiều nhất tới quỹ BHTG.
 
Cấu trúc của hệ thống tài chính ảnh hưởng tới quy mô quỹ BHTG bao gồm: Số lượng các tổ chức tham gia BHTG, năng lực tài chính của các tổ chức tham gia BHTG, mức độ rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, loại tiền gửi và người gửi tiền được bảo hiểm, mức độ tập trung. Ngoài ra, các yếu tố khác của hệ thống tài chính được xem xét là mức độ kết nối liên ngân hàng, khả năng xảy ra đổ vỡ…
 
Số lượng các tổ chức tham gia BHTG nhiều, tình trạng tài chính của các tổ chức tham gia BHTG tốt, tổ chức BHTG sẽ có nhiều thuận lợi trong việc phát triển nguồn thu của mình. Đồng thời, mức độ rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG cũng tỷ lệ thuận đối với rủi ro của quỹ BHTG.
 
Các tổ chức BHTG phát triển đến một trình độ nhất định, thường sử dụng các công cụ tài chính để đầu tư một cách linh hoạt, nâng cao khả năng sinh lời cho vốn của đơn vị mình. Nếu thị trường tài chính phát triển, tổ chức BHTG có điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng các công cụ tài chính để phát triển quỹ BHTG. Ngược lại, ở các quốc gia có thị trường tài chính chưa phát triển, tổ chức BHTG gặp khó khăn hơn trong phát triển nguồn thu thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính.
 
– Cơ chế giám sát, xử lý đổ vỡ: Các quy định về cơ chế giám sát, xử lý đổ vỡ các tổ chức tham gia BHTG là nhân tố ảnh hưởng đến quỹ BHTG. Việc giám sát hiệu quả các tổ chức tham gia BHTG, xử lý đổ vỡ một cách thận trọng làm giảm thiểu nguy cơ gây đổ vỡ ngân hàng, gây thiệt hại cho quỹ BHTG. 
 
Tổ chức BHTG thực hiện giám sát các tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện kịp thời các rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, từ đó có biện pháp can thiệp, xử lý kịp thời. Tổ chức BHTG có quyền can thiệp sớm vào hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG có thể làm giảm nguy cơ gây đổ vỡ ngân hàng, đồng thời giảm thiệt hại phát sinh do sử dụng quỹ BHTG để chi trả cho người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ. IADI (2014) khuyến nghị: “Việc thực hiện các biện pháp như giám sát, can thiệp sớm và xử lý đổ vỡ hiệu quả sẽ làm giảm thiểu các chi phí phát sinh liên quan đến đổ vỡ ngân hàng”.
 
– Điều kiện kinh tế vĩ mô: Điều kiện kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính nói chung và xác suất đổ vỡ tiềm ẩn.
 
Cơ chế quản lý quỹ BHTG chịu tác động khách quan của điều kiện kinh tế vĩ mô. Những biến động, thay đổi của môi trường kinh tế trong và ngoài nước ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô quỹ BHTG thông qua hoạt động đóng phí BHTG của các TCTD, hoạt động đầu tư, hay việc sử dụng quỹ BHTG để chi trả BHTG.
 
Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng, TCTD thường huy động được nguồn vốn nhiều hơn, quỹ BHTG cũng vì vậy mà phát triển thông qua nguồn thu phí BHTG. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, doanh nghiệp phá sản, người lao động không có việc làm, sẽ gây tác động tiêu cực đến hoạt động huy động vốn của TCTD, nguồn thu quỹ BHTG cũng vì thế mà suy giảm. Mặt khác, khi thị trường vào giai đoạn khó khăn, tổ chức BHTG cũng gặp khó khăn trong việc hoàn thành kế hoạch tăng trưởng vốn thông qua thu nhập từ hoạt động đầu tư, kế hoạch tài chính…
 
Đối với tổ chức tham gia BHTG, khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng hoạt động khó khăn, khó có khả năng trả nợ, dẫn đến nợ xấu của ngân hàng tăng, ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Trường hợp này gây rủi ro mất vốn cho quỹ BHTG do phát sinh chi trả BHTG.
 
Vì vậy, sự biến động của nền kinh tế vĩ mô trong nước là một trong những yếu tố sẽ ảnh hưởng đến quỹ BHTG.
 
– Khả năng tiếp cận nguồn tài trợ/dự phòng khẩn cấp: Khác với nguồn vốn nội bộ chủ yếu được hình thành từ nguồn thu phí, nguồn vốn bên ngoài là các nguồn mà các tổ chức BHTG huy động được khi cần thiết.      
 
– Việc chấp hành các quy định của các tổ chức tham gia BHTG: Thông qua việc đóng phí đầy đủ, đúng hạn từ các tổ chức tham gia BHTG, tạo nên nguồn thu dồi dào, sát kế hoạch dự toán cho quỹ BHTG, từ đó ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng quỹ BHTG. Ngược lại, nếu các tổ chức tham gia BHTG không hợp tác, hay chấp hành chưa đúng các quy định về đóng phí BHTG, dẫn đến khó khăn trong việc thu đúng, thu đủ phí BHTG, ảnh hưởng đến nguồn thu của quỹ BHTG, từ đó ảnh hưởng tới cơ chế quản lý quỹ BHTG.
 
Bên cạnh các yếu tố nêu trên, cơ chế quản lý quỹ BHTG còn chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như: Hệ thống văn bản quản trị, điều hành; hệ thống kế toán, kiểm soát, kiểm toán nội bộ.
 
Một số khuyến nghị:
 
– Các tổ chức BHTG nên xem xét tính đáp ứng và khả năng tiếp cận nguồn tài trợ/dự phòng khi cần thiết. Đó là nguồn vốn bên ngoài sẵn có mà tổ chức BHTG có thể tiếp cận để đáp ứng yêu cầu về thanh khoản khi cần thanh toán các yêu cầu về chi trả tiền bảo hiểm, ví dụ khoản vay từ Chính phủ.
 
– Đối với hệ thống văn bản quản trị điều hành cần đồng nhất, có quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân liên quan, quy định rõ các quy trình nghiệp vụ sẽ giúp cho việc quản lý và sử dụng quỹ BHTG hiệu quả. Thông thường, các tổ chức BHTG sẽ xây dựng quy chế quản lý và sử dụng quỹ BHTG. Hệ thống văn bản này sẽ quy định rõ cơ chế quản lý và sử dụng quỹ, là kim chỉ nam cho việc vận hành, quản lý quỹ hiệu quả, đồng thời cũng là căn cứ, cơ sở cho các hoạt động kiểm soát, kiểm toán liên quan.
 
– Để có cơ chế quản lý tài chính quỹ BHTG hiệu quả, các tổ chức tham gia BHTG cần có hệ thống kế toán và kiểm soát đảm bảo cho việc quản lý rủi ro, quản lý quỹ BHTG hiệu quả. Điều này bao gồm chế độ kế toán theo chuẩn mực quốc tế và hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ phân cấp hợp lý, đảm bảo việc tổ chức thực hiện trong nội bộ đơn vị kế toán các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra… Cần đảm bảo nhân sự quản lý tài chính quỹ BHTG không những là những người am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, mà còn là những người tận tâm, tận lực, trung thực, tôn trọng các nguyên tắc quản lý tài chính, tránh thất thoát, lãng phí cho đơn vị.
 
Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý quỹ BHTG giúp cho công tác hoạch định tài chính quỹ BHTG được sát với thực tế và việc tổ chức quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn vốn quỹ BHTG cho quá trình tái cơ cấu các TCTD, góp phần bảo vệ người gửi tiền cũng như ổn định thị trường tài chính tiền tệ.

Tuấn Hưng

Tạp chí Ngân hàng số 14/2021

Chia sẻ :


Bài viết liên quan

8 giải pháp điều hành chính sách tiền tệ những tháng cuối năm 2021

Trong báo cáo cập nhật hoạt động ngân hàng mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra 8 giải pháp điều hành chính sách tiền tệ những tháng cuối năm 2021.

Chia sẻ :


Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện 10 nội dung hạn chế rủi ro tín dụng

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có công văn số 3029/NHNN-TTGSNH gửi các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD) yêu cầu thực hiện nghiêm một số nội dung trong hoạt động.

Chia sẻ :


Một số tác động của pháp luật về thừa kế tới hoạt động ngân hàng

Pháp luật về thừa kế là một mảng pháp luật khá phức tạp. Khi áp dụng pháp luật về thừa kế trong hoạt động ngân hàng có thể phát sinh một số bất cập và rủi ro pháp lý cho cả các tổ chức tín dụng (TCTD) lẫn khách hàng. Bài viết tập trung phân tích các hạn chế này và gợi ý một số giải pháp quản lý rủi ro cho các TCTD.

Chia sẻ :


Sửa đổi nhiều quy định tháo gỡ vướng mắc đất đai khi chờ sửa Luật

Kết quả rà soát vướng mắc, chồng chéo trong hệ thống pháp luật liên quan đến đất đai của các Bộ, ngành, địa phương và từ ý kiến của cử tri, đại biểu Quốc hội… đã cho thấy có nhiều vấn đề bất cập, cần sửa đổi…

Chia sẻ :


Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng trong bối cảnh ðại dịch Covid-19

Kho dữ liệu Thông tin tín dụng (TTTD) do Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) quản lý lưu giữ thông tin của gần 47 triệu khách hàng vay, với sự tham gia báo cáo thông tin của 100% các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động tại Việt Nam, hơn 1.200 quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài chính vi mô cũng như các tổ chức khác trong và ngoài hệ thống ngân hàng trên cơ sở cập nhật định kỳ, đột xuất dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và các giải pháp thu thập, xử lý thông tin tự động, tiên tiến.

Chia sẻ :


Trong tháng 9, Tổ công tác của Thủ tướng sẽ báo cáo, tham mưu ‘gỡ vướng’ cho dự án đầu tư

Sau khi lắng nghe kiến nghị của địa phương và ý kiến từ các bộ, ngành, Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy thực hiện dự án đầu tư sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ ngay trong tháng 9, trên tinh thần báo cáo các vấn đề đã hướng dẫn, giải đáp rõ cho địa phương, và tham mưu những quyết sách mạnh mẽ hơn để giải quyết các tồn tại.

Chia sẻ :


Tái cơ cấu tổ chức tín dụng – Những kết quả đạt được

Triển khai trong nhiều năm qua, đến nay, toàn ngành Ngân hàng đã đạt được những kết quả khá toàn diện trên nhiều phương diện về tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam.

Chia sẻ :


Làm thế nào để kiểm soát giá đất?

Tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 3 diễn ra chiều 04/04, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường – ông Lê Công Thành đã nêu lên những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng giá đất ở nhiều nơi trên cả nước tăng nhanh cũng như nêu ra một số giải pháp để kiểm soát hiện tượng này.

Chia sẻ :


Cần một giải pháp toàn diện để xử lý nợ xấu

Với rủi ro nợ xấu gia tăng, các chuyên gia đều cho rằng Việt Nam cần đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu và phải có giải pháp toàn diện…

Chia sẻ :


Thủ tướng Chính phủ: “Thống kê phải nâng tầm để các con số biết nói và thực chất hơn”

“Thống kê không chỉ là liệt kê con số theo một cách cơ học mà phải làm các con số “biết nói”, thực chất hơn và phục vụ kịp thời cho công tác tham mưu, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh…

Chia sẻ :


Phản hồi

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *